Những ngày này 20 năm trước, trên các chuyến xe ngược Quốc lộ 70 và tàu hỏa ngược ga Phố Lu, từng đoàn cán bộ, nhân viên các cơ quan hối hả từ thị xã Yên Bái lên biên cương trong khí thế quyết tâm trở lại Lào Cai, xây dựng quê hương to đẹp. Thành tựu xây dựng lại Lào Cai hôm nay và tương lai tươi sáng ngày mai vẫn như vang vọng khí thế ngày nào.
|
Khu Tỉnh ủy cũ (ảnh chụp 25/4/1992). |
Bài 1: Khí thế ngày trở về
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng, trong khí thế xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ 2, tháng 12/1975, quyết định hợp nhất một số địa phương, trong đó 3 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới Hoàng Liên Sơn. Qua 15 năm xây dựng và phát triển, tỉnh đã giành được nhiều thành tựu hết sức to lớn trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và củng cố hệ thống chính trị. Với các huyện vùng cao, biên giới thành tựu quan trọng là xây dựng pháo đài biên giới, giữ vững biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, địa bàn rộng, bị chia cắt, tỉnh lỵ chuyển về thị xã Yên Bái, thị xã Lào Cai bị lãng quên trong hoang tàn, cơ chế bao cấp và hậu quả tàn phá của chiến tranh biên giới năm 1979 tiềm ẩn nhiều khó khăn, phức tạp cho các huyện vùng cao biên giới Lào Cai cũ. Bước vào thập niên cuối của thế kỷ XX, tình hình chính trị thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự khủng hoảng và tan vỡ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Từ tình hình nhiệm vụ cách mạng mới, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9, quyết định tái lập tỉnh Lào Cai. Thực hiện Nghị quyết Quốc hội, với quyết tâm về lại Lào Cai xây dựng quê hương to đẹp, các cơ quan tỉnh đã sớm hoàn thành việc tập kết tại Phố Lu, Tằng Loỏng, khu mỏ Cam Đường, ngày 1/10/1991, tỉnh mới Lào Cai chính thức đi vào hoạt động. Những tư liệu phản ánh về khí thế ngày trở về vùng biên cương hầu như chỉ còn trong ký ức của lớp cán bộ 20 năm trước. Báo Lào Cai sau một tháng tái lập tỉnh mới ra số đầu tiên.
Nhưng khí thế ngày trở về ví như bếp than hồng sưởi ấm mãi niềm say mê, thôi thúc bao thế hệ cán bộ, nhân dân, chiến sĩ các lực lượng vũ trang năng động hơn, sáng tạo hơn, tạo thế và lực để Lào Cai phát triển. Trên Quốc lộ 70, từng đoàn xe được huy động chở đồ đạc của các cơ quan, ban ngành tỉnh ngược lên Lào Cai. Qua Bảo Ái, rồi Hồng Quang, những địa danh quen thuộc từ sau chiến tranh biên giới, đến địa phận xã Long Khánh, một tấm biển mới, khiêm tốn đã được dựng lên "Địa phận tỉnh Lào Cai". Quốc lộ 70 thời đó gập ghềnh khó đi, nhưng nhìn vào tấm biển địa giới Lào Cai, ai nấy đều có chung cảm giác lạ kỳ, có người thốt lên: quê hương mới bắt đầu từ đây! Còn trên Ga Yên Bái - cầu đi và Ga Phố Lu - cầu đến, trông mới thật sinh động. Đồ dùng ưu tiên cho cán bộ đi trấn ải biên cương hầu như đã qua sử dụng hàng chục năm: bàn gỗ mộc có ngăn kéo ở giữa, ghế ba nan, máy chữ ôptima, đồ dùng nấu bếp tập thể... Với chủ trương được quán triệt "về tỉnh mới là thực hiện nhiệm vụ cách mạng, cần những cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình xây dựng lại Lào Cai", nên không chỉ cán bộ trước đây công tác ở Lào Cai, mà nhiều cán bộ trẻ quê Yên Bái, Nghĩa Lộ cũng xung phong tình nguyện ngay từ đầu. Khí thế về lại Lào Cai đã chiến thắng tư tưởng lừng chừng, ngại khó, là lời nhắc nhở cho số ít người do tính toán, so đo, sau này thấy điều kiện thuận lợi hơn lại năn nỉ xin được lên công tác Lào Cai. Các cơ quan trên địa bàn thị xã Lao Cai, Mỏ Apatít, Khu Tuyển quặng Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng và nhiều hộ gia đình đã nhường những phòng làm việc tốt nhất cho các cơ quan tập kết. Công tác tổ chức lại bộ máy các cơ quan và triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội được ưu tiên hàng đầu. Những tháng ngày khó khăn nơi tập kết dù thiếu thốn, nhưng mà vui. Tháng 1/1992, với tinh thần đổi mới, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, tầm nhìn đến năm 2005, quyết định mục tiêu kế hoạch 5 năm (1991 - 1995).
Mốc son lịch sử mở đầu giai đoạn mới trong quá trình đi lên của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Lào Cai chính là vào tháng 4/1992, Tổng Bí thư Đỗ Mười lên thăm và làm việc tại Lào Cai, sau khi kiểm tra thực tế và trước diễn biến mới trong quan hệ Việt - Trung, Tổng Bí thư đã cho ý kiến chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, mở hướng xây dựng khu vực biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Tiếp đó, tháng 8/1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt lên thăm và làm việc tại Lào Cai, cho ý kiến chỉ đạo thực hiện quy hoạch tổng thể và chi tiết thị xã tỉnh lỵ sát biên giới. Tháng 5/1993, sau những nỗ lực mới, quan hệ hai tỉnh Lào Cai - Vân Nam đã khai thông, được Chính phủ hai nước đồng ý, hai bên tổ chức thông xe cầu Hồ Kiều và mở lại Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai. Đoạn đường sắt Phố Lu - Lào Cai dài trên 40 km được xây dựng lại và toàn tuyến Lào Cai - Hà Nội sau 14 năm bị gián đoạn do chiến tranh biên giới cũng thông suốt. Đây được coi là dấu ấn quan trọng, mốc son lịch sử xây dựng lại vị thế Lào Cai, cầu nối trên khu vực biên giới Tây Bắc của đất nước trong chặng đường hội nhập, hợp tác quốc tế. Với tinh thần đoàn kết, vượt qua khó khăn, gian khổ, được sự giúp đỡ to lớn của Chính phủ, sau 20 tháng nỗ lực xây dựng thị xã Lào Cai từ hoang tàn, đổ nát, tháng 6/1993 tất cả các cơ quan tỉnh đã chuyển về trụ sở làm việc mới.
Cũng trong niềm vui khôn tả, hàng nghìn hộ công nhân viên chức và nhân dân lao động phấn khởi vì đã có căn nhà mới của riêng mình trên quê hương Lào Cai. Thị xã hoang tàn sau chiến tranh biên giới ngày nào chỉ còn tháp chuông nhà thờ Cốc Lếu chưa bị đánh sập, hôm nay đã có Đại lộ Hoàng Liên chạy dài, hai bên là các cơ quan tỉnh được xây dựng khang trang. Tháng 5/1994, cây cầu Cốc Lếu mới xây dựng lại được khánh thành, đưa vào sử dụng thay cho bến phà thời chiến. Sau gần một trăm năm mở rộng, phố Lão Nhai xưa đã tiến sang hữu ngạn Hồng Hà, đôi bờ lại liền nhịp, mạch nguồn sinh tụ cho thành phố cầu nối giao thương trong thời kỳ mới. Sau ngày tái lập tỉnh, phong trào văn hóa - thể thao được đánh thức, ngày 26/3/1992, Giải Việt dã tiền phong Báo Lào Cai mở màn cho phong trào luyện tập sức khỏe, thu hút không chỉ lớp trẻ mà hàng trăm cựu chiến binh và đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Sau những bước thăng trầm, với nhiều nỗ lực, khai giảng năm học mới 1994 - 1995, lần đầu tiên sau 15 năm học, tất cả các xã trên địa bàn đều có trường học. Những dấu ấn lịch sử nêu trên và sự kiện lịch sử khác sẽ còn được khắc họa trong hồi ức nhiều người đang là nhân chứng lịch sử. Mạch nguồn của thành tựu đều bắt đầu từ chủ trương "... Ưu tiên 65 - 70% nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, vùng đồng bào dân tộc. Đồng thời, tập trung đầu tư để đột phá tăng trưởng 3 lĩnh vực: kinh tế cửa khẩu, dịch vụ, công nghiệp và du lịch" mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, tháng 1/1992 đã đề ra.
 |
Cầu Cốc Lếu xây dựng năm 1992. (Ảnh: Lê Hựu) |
Qua 4 năm thực hiện, đến năm 1995, cơ cấu GDP đã chuyển dịch đúng hướng. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp năm 1991 là 70,5%, năm 1995 còn 57%; công nghiệp từ 12% tăng lên 14%; xây dựng cơ bản từ 4,7% tăng lên 10,3%; thương mại du lịch từ 12,2% tăng lên 18,1%. Liên tiếp 4 năm, nông nghiệp được mùa, năm 1995, tổng sản lượng lương thực đạt trên 141 nghìn tấn, bình quân lương thực trên 250 kg/người/năm, vượt mục tiêu Đại hội Đảng bộ đề ra trên 1.000 tấn, cơ bản đảm bảo được an ninh lương thực trên địa bàn. Cơ sở hạ tầng nông thôn được quan tâm xây dựng, những vấn đề nổi cộm về an ninh trật tự trong khu vực nông thôn vùng cao cơ bản được giải quyết. Công nghiệp Lào Cai được quan tâm đầu tư, ngoài 51 doanh nghiệp quốc doanh, còn có 235 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động. Công ty Apatít Việt Nam đã được củng cố lại, xác định rõ hướng tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; Nhà máy tuyển quặng Tằng Loỏng đi vào sản xuất có hiệu quả. Lợi thế kinh tế cửa khẩu đã được phát huy, thông qua khai thác thế mạnh hoạt động mậu dịch biên giới và mậu dịch địa phương giữa Lào Cai và Vân Nam. Trong 5 năm, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu đạt trên 9,76 triệu USD, trong đó xuất khẩu trên 4,71 triệu USD, tăng trên 41%/năm. Lĩnh vực văn hóa - xã hội đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế. Sau những nỗ lực đầu tư và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, năm học 1994 - 1995, toàn tỉnh đã có 100% xã, phường có trường học, trên 65% số trẻ em trong độ tuổi đến trường (năm 1991 còn hàng chục xã vùng cao không có trường học, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đến lớp mới đạt 35,7%). Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân được quan tâm. Mạng lưới y tế được mở rộng, các trạm y tế xã, các đội vệ sinh phòng dịch được củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động. Các trung tâm y tế huyện, thị được đầu tư nâng cấp với quy mô từ 50 - 80 giường bệnh, đảm bảo đủ trang - thiết bị cần thiết và lực lượng y, bác sĩ để khám - chữa bệnh cho nhân dân.
Nhớ lại ngày đầu tái lập tỉnh, 22 xã chưa có trạm y tế, trong đó 15 xã trắng hoàn toàn về y tế; dịch sởi ở vùng cao huyện Bát Xát, Sa Pa năm 1992 cướp đi sinh mệnh trên trăm trẻ em, mới thấy ý nghĩa lớn lao của những con số thống kê trên. Tỷ lệ phát triển dân số từ 3,7% (năm 1991) giảm còn gần 3,5% năm 1995. An ninh - quốc phòng được giữ vững, khu vực biên giới hòa bình, hữu nghị đáp ứng yêu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác xây dựng Đảng và củng cố hệ thống chính trị đạt nhiều thành tựu mới. Năm 1992 mới có 35,6% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh, đến năm 1995 tăng lên 43,6%. Trong 4 năm, toàn tỉnh đã kết nạp 1.578 đảng viên mới, trong đó có 42% là đảng viên người dân tộc.
Thành tựu trong những năm đầu tái lập tỉnh khẳng định sự đoàn kết nhất trí cao của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc, chiến sĩ các lực lượng vũ trang Lào Cai đã vượt qua khó khăn, thử thách, nhanh chóng ổn định tình hình; năng động, sáng tạo nắm bắt, vận dụng nghị quyết Trung ương một cách sáng tạo, định ra những chủ trương, giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh vùng cao, biên giới, nhiều dân tộc để phát triển. Thành tựu đạt được đó là cơ sở vững chắc, hun đúc thêm truyền thống cách mạng để tỉnh Lào Cai vươn lên trong những năm tiếp theo.
(Còn nữa)
Phạm Khắc Xương