Giải đáp vướng mắc của một số doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực tài nguyên – môi trường
CTTĐT – Liên
quan đến các ý kiến kiến nghị, đề xuất tại Hội nghị gặp gỡ Doanh nghiệp năm
2017, Sở Tài nguyên và Môi trường tổng hợp giải đáp những thắc mắc về 6 nội dung như sau:
1. Về đề nghị của Công ty cổ phần hóa chất Bảo Thắng đề nghị UBND tỉnh
và các cơ quan ban, ngành tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp sớm nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trả lời: Công ty cổ phần hóa chất Bảo Thắng được UBND tỉnh chấp thuận Nhà đầu tư tại Quyết định số 2694/QĐ-UBND ngày
25/8/2015 để thực hiện dự án Nhà máy sản xuất Axit thực phẩm và Các muổi phốt phát tại Lô B9, B10, B18 và B19, Khu công nghiệp Tằng Lỏng, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai với tổng diện
tích quỹ đất thực hiện dự án là 258.992,0m2. Thực tế, Công ty cố phần hóa chất Bảo Thắng đã triển khai thực hiện dự án tại
02 lô đất B9 và B10 và đưa vào sử dụng quỹ đất từ quý IV/2016; Lô B18, B19 hiện
đã giải phóng xong mặt bằng, chưa xây dựng công trình.
Đến nay, Công ty cố phần hóa chất Bảo Thắng chưa hoàn thiện các
thủ tục về đất đai, chưa được UBND tỉnh cho thuê đất để thực hiện dự án theo
quy định.
- Ngày 11/7/2015,
Công ty cổ phần hóa chất Bảo Thắng có Công văn số
17/BTC-Cv xin thuê đất theo giai đoạn để thực hiện dự án; Sở Tài nguyên và Môi
trường sau khi thống nhất các ngành đã có văn bản số 1534/STNMT-CCĐ ngày
19/7/2016 đề nghị UBND tỉnh xem xét cho thuê đất giai đoạn 1 để thực hiện dự
án. Tuy nhiên, UBND tỉnh chưa đồng ý và đã giao Ban quản lý khi kinh tế chủ
trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra, giám sát và đánh
giá tiến độ, tình hình thực hiện dự án Nhà máy sản xuất Axit thực phẩm và các muối phốt phát tại lô B18 và B19. Do đó phải chờ Ban quản lý khu kinh tế tỉnh kiểm tra và báo
cáo UBND tỉnh xem xét, quyết định.
2. Về đề nghị của Ngân hàng nông nghiệp – Chi nhánh tỉnh Lào Cai về việc cấp quyền sở hữu tài sản trên đất cũng như
các chính sách về quản lý đất đai rất khó khăn đối với doanh nghiệp khi thực hiện dự án đầu tư.
Trả lời: Về nội dung này, Sở Tài nguyên và Môi trường đã giải quyết theo đúng
quy định và chủ động tham mưu đề xuất rút ngắn được thời gian là 03 ngày đối với
thủ tục cấp quyền sở hữu tài sản (Từ trước tới nay đã
chứng nhận quyền sở hưu tài sản cho 219 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Tuy
nhiên các khó khăn, vướng mắc là do chủ đầu tư thực hiện xây dựng không đúng giấy
phép xây dựng, dự án, Giấy chứng nhận đầu tư được phê duyệt. Sở Tài nguyên và Môi trường đã chủ động tham
mưu báo cáo UBND tỉnh chỉ đạo cơ quan chuyên môn tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối
với công tác cấp quyền sở hữu tài sản; Sở Xây dựng đã có
văn bản hướng dẫn các trường hợp phải xin ý kiến và không phải xin ý kiến trong việc chứng nhận quyền sở hữu tài
sản tại Văn bản số 408/SXD-QLN ngày 01/3/2017. Do vậy đề nghị các doanh nghiệp và Ngân hàng nông nghiệp căn cứ văn bản hướng dẫn của Sở Xây dựng để hoàn thiện
hồ sơ đề nghị cấp quyền tài sản theo quy định.
3. Về đề nghị của Công ty cổ phần Khoáng sản Lào Cai đối với các vướng mắc
liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng
dự án Khai thác, chế biến quặng Cao Lanh – Fenspast tại xã Làng Giàng, huyện Văn Bàn
Trả lời: - Công ty cổ phần khoáng sản Lào Cai (trước đây là Công
ty TNHH MTV khoáng sản Lào Cai) được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư 12 121000 378 ngày 03/6/2013 để
thực hiện dự án Khai thác và chế biến Cao Lanh – Fenspat tại xã Làng Giàng, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai với
tổng diện tích thực hiện dự án là 42,178 ha, Công ty đã được UBND tỉnh cho thuê
1,5703 ha đất, còn lại phần diện tích 40,6077 ha đất nằm trong quy
hoạch dự án chưa được UBND tỉnh cho thuê đất, tuy nhiên Công ty đã tiến hành
khai thác khoáng sản trên phần diện tích này. Việc Công ty sử dụng đất để thực hiện
dự án trên phần diện tích chưa được Nhà nước cho thuê
đất là hành vi chiếm đất (theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số
102/2014/NĐ-C ngày 10/11/2014 của Chính phủ), thuộc một trong các hành vi bị nghiêm cấm theo
quy định tại Điều 12 Luật Đất đai năm 2013. Về các sai phạm này, UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết tại văn bản số
5490/UBND - TNMT ngày 09/11/2016, trong đó phê bình và yêu cầu Công ty cổ phần khoáng sản Lào Cai dừng ngay việc khai thác khoảng
sản, khẩn trương phối hợp với UBND huyện Văn Bàn và Sở, ban, ngành hoàn thiện
thủ tục đất đai trước khi thực hiện dự án. Mặt khác, theo báo cáo thì Công ty
chính thức đi vào hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần từ 01/3/2016, tuy nhiên quan kiểm tra thì tại thời
điểm tháng 10/2016, Công ty vẫn tiếp tục dang khai thác khoáng sản trên phần diện tích đất chưa được Nhà nước cho thuê. Như vậy,
Công ty cổ phần khoáng sản Lào Cai cho rằng việc tổ chức khai thác khoáng sản
khi chưa được Nhà nước cho thuê đất không thuộc lỗi của Công ty cổ phần là
không có cơ sở.
- Về công
tác giải phóng mặt bằng: Đề nghị Công ty cổ phần khoảng sản Lào Cai thực hiện
theo đúng chỉ đạo của UBND tỉnh tại văn bản số 5490/UBND-TNMT ngày 09/11/2016.
Trường hợp gặp khó khăn, đề nghị Công ty có văn bản đề nghị UBND tỉnh cho phép
thuê đất để thực hiện dự án theo tiến độ giải phóng mặt bằng.
4. Về đề nghị của Chi nhánh Công ty cổ phần Sông Đà 9
đối với vướng mắc liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng dự án thủy điện PaKe
Trả lời: Dự án Thủy điện Pa Ke là công trình theo tuyến, có địa hình phức tạp,
ranh giới thực hiện dự án trải dài 19km trên địa bàn hai tỉnh Lào Cai và Hà
Giang. Vì vậy công tác giải phòng mặt bằng của dự án sẽ gặp nhiều khó khăn và
thời gian kéo dài. Vì vậy, việc Chi nhánh Công ty cổ phần Sông Đà 9 đề nghị được
thực hiện giải phóng mặt bằng theo đợt và thuê đất để triển khai dự án theo tiến
độ giải phóng mặt bằng là có cơ sở. Đề nghị Chi nhánh Công ty cổ phần Sông Đà 9
có văn bản đề nghị gửi UBND tỉnh Lào Cai, để UBND tỉnh giao các Sở, ngành có
liên quan kiểm tra, xem xét tham mưu giải quyết theo quy định.
5. Về đề nghị của Công ty TNHH MTV Apatits Việt Nam đối
với cá vướng mắc liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng và giải quyết hiện
tượng người dân cản trở sản xuất của Công ty.
Trả lời:
5.1. Đặc thù trong lĩnh vực khai thác các khai trường
chiếm diện tích đất lớn nên không thể làm hàng rào ranh giới, chỉ có thể cắm mốc
giới nên dễ xảy ta tình trạng xâm lấn đất đai. Nhiều diện tích đất sau khi bồi
thường xong nhưng trong thời gian Công ty chưa sử dụng đến, các hộ dân tự ý
canh tác lại trên phần đất đã bồi thường khi Công ty sử dụng đến, khi Công ty sử
dụng đến các hộ dân lại yêu cầu bồi thường lại:
Theo quy định
thì đối với đất đã được giao, cho thuê thì người được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất phải có trách nhiệm quản lý sử dụng theo quy định. Nếu để xảy ra tình
trạng lấn chiếm là vi phạm pháp luật về đất đai sẽ bị Nhà nước thu hồi đất theo
quy định tại Điều 64 Luật Đất đai năm 2013. Vì vậy đề nghị Công ty TNHH MTV Apatit
Việt Nam phải có biện pháp quản lý sử dụng, kịp thời báo cáo với chính quyền địa
phương giải quyết đối với các hành vi lấn, chiếm đất.
5.2. Các cơ chế chính sách bồi thường GPMB thay đôit
theo từng năm, năm sau cao hơn năm trước, do đặc thù các dự án của Công ty sử dụng
nhiều diện tích đất, giá đất nông nghiệp hỗ trợ 03 lần để chuyển đổi việc đã
làm tăng chi phí dự án:
Theo quy định
tại Điểm a, khoản 1, Điều 20, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ thì đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị
thu hồi đất thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền đối với diện tích đất nông
nghiệp thu hồi còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm bằng
tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại và giao UBND tỉnh quy định
mức hỗ trợ cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Như vậy, việc UBND
tỉnh quy định hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm bằng 03 lần
giá đất nông nghiệp cùng loại là phù hợp với quy định và phù hợp với thực tế của
địa phương, góp phần đảm bảo ổn định cuộc dống của người bị thu hồi đất. Mặt
khác chi phí này là chi phí Công ty ứng trước để Nhà nước thực hiện giải phóng
mặt bằng và sẽ được trừ vào tiền thuê đất hàng năm, vì vậy sẽ không ảnh hưởng đến
hiệu quả đầu tư của dự án.
5.3. Một số dự án Công ty đang thực hiện dử dụng nhiều
diện tích đất nên việc thực hiện công tác GPMB kéo dài trong nhiều năm, trong
khi chính sách đèn bù và giá đất có nhiều thay đổi. Dự án nằm trong khu vực dân
tộc ít người, trình độ dân trí không đồng điều, nhiều yêu sách của nhân dân
không đúng quy định của nhà nước, có những hộ trước đây đã nhận tiền đền bù,
nay thấy đơn giá mới cao hơn lại đòi hỏi Công ty phải hỗ trợ thêm. Trong khi đó
Công ty đang thực hiện các chính sách bồi thường theo đúng chế độ nhà nước ban
hành. Đối với người dân thì không đáp ứng được yêu cầu, họ rào đường đi lại
không cho Công ty sản xuất.
Về nội
dung này, đề nghị Công ty phối hợp với chính quyền, mặt trận tổ quốc các cấp và
các tổ chức đoàn thể tổ chức vận động, tuyên truyền người sử dụng đất chấp hành
các quy định của pháp luật. Trường hợp người sử dụng đất không chấp hành, thì
Công ty có ý kiến đề nghị UBND các huyện, thành phố giải quyết và có biện pháp
xử lý đối với hành vi cản trở sản xuất của Công ty.
6. Về đề nghị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của Công ty cổ phần Minh Sơn.
Đến nay, Sở Tài nguyên và Môi trường chưa nhận
được hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các lô đất còn
lại dự án Tiểu khi đô thị số 4 của Công ty cổ phần Minh Sơn. Khi nhận được hồ
sơ, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ triển khai thực hiện đảm bảo đúng thời gian
thủ tục hành chính quy định.
Nguồn: văn bản số 428/STNMT-CCD ngày 8/3/2017 của Sở Tài nguyên và Môi trường